Người kinh doanh chứng khoán có thể đặt cọc bằng tiền mặt hoặc chứng khoán, và khoản đặt cọc đó được ghi vào tài khoản đặt cọc. Với hợp đồng tương lai thì khoản đặt cọc này thường được hiểu là đặt cọc thực hiện hợp đồng - bảo chứng.
Đặt cọc được phân ra một số loại như sau:
-

Đặt cọc thanh lý tức thời (current liquidating margin): tương đương với giá trị của thương vụ kinh doanh chứng khoán nếu nó được thanh lý ngay lập tức. Ví dụ, nếu người kinh doanh tiến hành nghiệp vụ bán khống thì đây là số tiền cần thiết để mua lại số chứng khoán đã bán.
-
Đặt cọc phí quyền chọn: người bán quyền chọn có nghĩa vụ phải giao các tài sản cơ sở (cổ phiếu, trái phiếu...) của hợp đồng quyền chọn nếu người mua quyết định thực hiện quyền chọn của mình. Để đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ này, người bán phải đặt cọc 1 khoản tiền tương đương với khoản phí cần thiết để mua lại quyền chọn đó và kết thúc hợp đồng.
-
Đặt cọc bổ sung: khoản đặt cọc bổ sung được sử dụng để đề phòng sự sụt giá của khoản đầu tư trong những ngày giao dịch tiếp theo, tương đương với khoản lỗ trong tình huống xấu nhất.
Khi tiến hành một thương vụ nào đó, nhà đầu tư có thể cùng lúc phải đảm bảo từng mức tối thiểu của các loại đặt cọc trên. Tổng tất cả các mức tối thiểu đó được gọi là yêu cầu đặt cọc tối thiểu, và nhà đầu tư phải duy trì tài khoản đặt cọc không thấp hơn mức này.
Ví dụ:
Một nhà đầu tư bán một hợp đồng quyền chọn, theo đó người mua có quyền mua 100 cổ phiếu X với giá $90/cp. Đổi lại, anh ta nhận được phí quyền chọn $14/cp. Số tiền này tương đương với số tiền đặt cọc phí quyền chọn (premium margin). Trong trường hợp anh ta muốn phá bỏ hợp đồng thì người mua quyền chọn sẽ được bồi thường bằng số tiền này. Theo tính toán, đến 99% khả năng là giá hợp đồng quyền chọn này sẽ không vượt qua $17/cp vào ngày tiếp theo. Do đó khoản đặt cọc bổ sung tối thiểu là $3/cp. Như vậy nhà đầu tư phải duy trì tài khoản đặt cọc tối thiểu là $17/cp.
Khi mức đặt cọc trong tài khoản đặt cọc thấp hơn mức hơn mức đặt cọc tối thiểu, người môi giới hoặc công ty chứng khoán sẽ đưa ra yêu cầu tăng đặt cọc (margin call). Lúc này nhà đầu tư hoặc phải tăng khoản đặt cọc hoặc phải kết thúc thương vụ tại đây.
Liên quan đến khoản đặt cọc là tỉ lệ thu nhập trên mức đặt cọc (ROM - Return on margin), thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh doanh vì nó phản ánh mức lãi lỗ thuần so với rủi ro của thương vụ phản ánh trên số đặt cọc cần thiết (số vốn đầu tư).