Tuy nhiên, đầu tư vào một danh mục đầu tư gồm cổ phiếu nhiều rủi ro có thực sự giúp tăng lợi nhuận đầu tư của bạn theo thời gian? Câu trả lời có thể làm bạn ngạc nhiên. Đọc để tìm hiểu về những gì đang được mệnh danh là "biến động thấp bất thường," tại sao nó tồn tại, và những gì chúng ta có thể học từ nó.
Thế nào là Lợi nhuận thấp từ các cổ phiếu ít biến động?
Lợi nhuận thấp từ các cổ phiếu ít biến động là lý thuyết hiện đại đúng đắn về danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư rủi ro, cổ phiếu hay biến động nên có lợi nhuận cao hơn so với một danh mục đầu tư an toàn hơn, gồm các cổ phiếu ít biến động. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thị trường chứng khoán đã phát hiện ra rằng điều này không phải là luôn luôn đúng. Tháng 3 năm 2010, nghiên cứu của Malcolm Baker, Brendan Bradley và Jeffrey Wurgler, xuất bản trên tạp chí Financial Analysist số ra tháng 1 và 2 năm 2011, với tiêu đề "Benchmarks as Limits to Arbitrage:Understanding the Low-Volatility Anomaly ( tạm dịch: Chỉ số tham chiếu như ngưỡng giới hạn để Arbitrage: Sự bất thường của những cổ phiếu có độ biến động thấp) đã chứng minh rằng từ tháng một 1968 đến tháng Mười Hai 2008 danh mục đầu tư cổ phiếu ít rủi ro thực sự vượt trội so hơn với danh mục đầu tư cổ phiếu rủi ro với một khoảng chênh lệch lớn. Nghiên cứu này sắp xếp hàng tháng 1000 cổ phiếu lớn nhất tại Mỹ thành năm nhóm khác nhau, dựa trên hai thước đo rủi ro đầu tư được chấp nhận rộng rãi. Các tác giả chạy nghiên cứu một lần, bằng cách sử dụng độ trễ hệ thống như là một proxy cho các rủi ro, và một lần nữa bằng cách sử dụng độ trễ của beta. Trong khoảng thời gian 41 năm, một đồng đô la đầu tư vào danh mục cổ phiếu ít biến động nhất đã tăng lên 53,81 USD, trong khi một đồng đô la đầu tư vào danh mục đầu tư rủi ro nhất chỉ đạt $ 7,35. Các nhà nghiên cứu tìm ra điều tương tự khi họ phân loại các cổ phiếu dựa trên độ trễ của beta. Trong cùng thời kỳ đó, một đồng đô la đầu tư vào danh mục đầu tư gồm các cổ phiếu có beta thấp nhất đã tăng lên 78,66 USD, trong khi một đồng đô la đầu tư vào danh mục đầu tư với các cổ phiếu có beta cao nhất tăng không đáng kể, chỉ 4,70 $. Nghiên cứu giả định không có chi phí giao dịch. Những kết quả này đi ngược lại quan điểm cho rằng rủi ro (biến động) đồng nghĩa với lợi nhuận. Trong khoảng thời gian nghiên cứu, một nhà đầu tư chọn cổ phiếu ít rủi ro sẽ được lợi từ một kịch bản lợi nhuận nhất quán hơn. Đồng thời nhà đầu tư này cũng ít chịu ảnh hưởng từ các cổ phiếu được thị trường định giá quá cao.
Kiếm tiền nhanh?
Những người đề xướng thuyết tài chính hành vi cho rằng cổ phiếu ít biến động là một món hời theo thời gian, bởi vì các nhà đầu tư thông thường sẽ bỏ qua các cổ phiếu này một cách vô lí. Các nhà đầu tư thường chọn các cổ phiếu có biên độ giá lớn hơn, đầu tư ăn may theo kiểu xổ số. Những người ủng hộ trường phái này cũng tin rằng các nhà đầu tư có xu hướng tin vào những "câu chuyện" tuyệt vời về các cổ phiếu lớn. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những "cổ phiếu hứa hẹn" lại được chào mời nhiều nhất và có xu hướng nằm trong nhóm những cổ phiếu đắt và bất ổn nhất. Sự tự tin thái quá đóng một vai trò quan trọng ở đây. Nhìn chung, các nhà đầu tư đều đánh giá sai khả năng của bản thân trong việc dự đoán thời điểm mà giá cổ phiếu đạt đỉnh hoặc chạm đáy. Điều này làm cho cổ phiếu nhiều rủi ro xuất hiện như một khoản đầu tư tốt hơn so với hiện thực. Ngay cả "đầu tư thông minh" cũng có xu hướng đầu tư vào các cổ phiếu rủi ro. Nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp được trả thù lao dựa vào kết quả đầu tư ngắn hạn và khả năng thu hút các nhà đầu tư mới. Điều này chính là động lực khiến họ chọn các cổ phiếu rủi ro thay vì các cổ phiếu ít biến động, đặc biệt trong giai đoạn thị trường tăng trưởng nhanh. Cho dù đó là thói quen xấu hay do ý đồ cá nhân, các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào thị trường các cổ phiểu rủi ro nhất. Điều này khiến lợi nhuận trong tương lai của họ sẽ thấp hơn so với những nhà đầu tư chọn cổ phiếu an toàn. Do đó, các cổ phiếu an toàn có xu hướng vượt trội qua thời gian.
Trước khi bạn đặt cược vào cổ phiếu ít biến động!
Trước khi bạn đánh đổi tất cả các cổ phiếu công nghệ (nhiều biến động) của mình bằng một danh mục đầu tư gồm các cổ phiếu của ngành dịch vụ công cộng (ít biến động), cần ghi nhớ rằng, như hầu hết các bất thường của thị trường chứng khoán, điều này tồn tại bởi vì nó không dễ dàng để khai thác. Một nghiên cứu được công bố trong tháng Chín 2011 bởi Rodney Sullivan và Xi Li tựa đề "Những giới hạn của Arbitrage sửa đổi: ít biến động bất thường", tìm hiểu các khả năng tồn tại của thị trường cho các cổ phiếu ít biến động bất thường trong giai đoạn từ 1962 đến 2008. Trong giai đoạn nghiên cứu 45 năm, Sullivan và Li thấy rằng, tính hiệu quả của việc đầu tư vào một cổ phiếu có tiếng tăm mà ít biến động là khá hạn chế. Những vấn đề được nêu ra trong nghiên cứu bao gồm sự cần thiết phải tái cân bằng danh mục đầu tư thường xuyên và chi phí giao dịch cao do đầu tư vào các cổ phiếu có tính thanh khoản kém. Theo nghiên cứu này, các cổ phiếu có tính thanh khoản kém chính là nhóm tập trung các cổ phiếu an toàn bất thường mà đem lại lợi nhuận bất thường.
Có một vài vấn đề khác liên quan đến việc đầu tư vào các cổ phiếu ít biến động. Chiến lược đầu tư vào các cổ phiếu này có thể đem lại lợi nhuận thấp hơn so với thị trường trong một thời gian dài. Đồng thời những cổ phiếu này có xu hướng tập trung chủ yếu vào một vài lĩnh vực như dịch vụ công cộng và các nhu yếu phẩm hàng ngày.
Kết luận
Mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng có thể đúng khi đa dạng hóa đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau, tuy nhiên điều này không phải là luôn luôn đúng khi đầu tư vào một tài sản cụ thể, như cổ phiếu. Sẽ rất nguy hiểm khi cho rằng bạn có thể tăng lợi nhuận đầu tư, đơn giản bằng cách đầu tư vào một danh mục cổ phiếu đầy rủi ro. Điều này cũng nguy hiểm như việc cho rằng các nhà nghiên cứu chứng khoán an toàn bất thường, đã bằng một cách nào đó, phát hiện ra một biện pháp thần kì để đạt được lợi nhuận cao hơn. Các nhà đầu tư chứng khoán cần cân nhắc tầm quan trọng của tính nhất quán khi cố gắng nâng cao lợi nhuận đầu tư của mình. Đồng thời họ cũng nên xem xét đến việc sự ổn định giá cổ phiếu của một công ty thường phản ánh nguồn thu nhập cơ bản thực chất của công ty đó.