Những Bài Học Từ 4 Cuộc Khủng Hoảng Thị Trường Chứng Khoán Trên Thế Giới

Phương Trương
16/03/2015 - 21:00 10957     0

Lịch sử chứng khoán thế giới đã chứng kiến rất nhiều cuộc khủng hoảng tại nhiều quốc gia. Hãy cùng nhìn lại 4 cuộc khủng hoảng  tiêu biểu dưới đây và học tập cách các nền kinh tế khác đã đối mặt với những đợt khủng hoảng thị trường chứng khoán như thế nào?

 

1. Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn và hiệu ứng Domino tại Hoa Kỳ

Kể từ cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn vào mùa thu năm 2008, thị trường bất động sản, thị trường tín dụng, và cả thị trường chứng khoán Mỹ đã phải đối mặt với những rắc rối lan rộng không thể kiểm soát.

Những bản báo cáo tài chính đáng thất vọng của các tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu, giá dầu leo thang trong khi chỉ số niềm tin của người tiêu dùng tụt xuống mức thấp chưa từng thấy là những bằng chứng rõ ràng nhất về sự xuống dốc của nền kinh tế Mỹ. Giới đầu tư hoang mang, lo sợ, bán tháo cổ phiếu đẩy thị trường chứng khoán đang lao đao càng trở nên ảm đạm.

Tuy nhiên sau đó, đã bắt đầu có những tín hiệu đáng mừng cho thấy sự tăng trở lại của sàn giao dịch – kết quả của hàng loạt nỗ lực từ Chính phủ và Cục dự trữ liên bang Mỹ:

  • Bơm tiền vào thị trường: vào cuối tháng 11/2008, FED đã tung ra gói nới lỏng định lượng (quantitative easing) lần đầu tiên. QE1 đã tỏ ra hữu hiệu khi ngăn chặn nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái sâu rộng.
  • Duy trì tình trạng đồng đô la mất giá: nhằm kích thích xuất khẩu, giảm nhập khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại Mỹ. Tuy nhiên giải pháp này kéo theo nguy cơ lạm phát, mặc dù theo nhận định lúc đó của các chuyên gia Mỹ thì “lạm phát vẫn không đáng sợ bằng sự sụp đổ thị trường tài chính
  • Hoàn trả thuế cho các hộ gia đình: nhằm cải thiện đời sống nguời dân, tạo việc làm và hồi phục kinh tế
  • Đồng loạt giảm lãi suất tại các ngân hàng thương mại: có tác dụng kích cầu đối với người dân và các doanh nghiệp, tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế Mỹ.
  • Hỗ trợ các doanh nghiệp: nhằm cải thiện tình trạng kinh doanh – nâng giá cổ phiếu doanh nghiệp trên sàn.

Đồng thời các nhân vật uy tín đã công bố hàng loạt các thông tin và dự đoán tốt lành nhằm trấn an tâm lí hoảng loạn của các nhà đầu tư, tránh tình trạng bán tháo cổ phiếu gây rối loạn thị trường chứng khoán.

2. Thập niên mất mát sau khi bong bóng tài sản vỡ tại Nhật Bản

Sau khi bong bóng kinh tế vỡ đầu thập niên 1990, kinh tế Nhật Bản chuyển sang thời kỳ trì trệ kéo dài. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của giai đoạn 1991-2000 chỉ là 0,5% - thấp hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước. Thị trường tài chính đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng ngay sau khi bong bóng kinh tế và bong bóng giá tài sản vỡ. Nhằm vực dậy nền kinh tế, Chính phủ Nhật đã đưa ra hàng loạt chính sách cải tổ:

  • Cắt giảm chi tiêu và vay nợ của Chính phủ: nhằm hạn chế tối đa gánh nặng ngân sách. Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng với mức đầu tư lớn được hoãn lại, nguồn vốn tập trung hỗ trợ cho các thành phần kinh tế đang gặp khó khăn.
  • Xoá nợ: chính phủ chấp nhận xoá bỏ các khoản nợ xấu để lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng và các tập đoàn lớn
  • Trao quyền cho chính quyền địa phương: để tăng cường sự linh hoạt.
  • Bãi bỏ nhiều quy định về kinh doanh: để khuyến khích các nhà đầu tư cũ quay trở lại, đồng thời thu hút đầu tư mới. Các thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng được đơn giản hoá.

Phải mất một thời gian khá dài, Chính phủ Nhật mới đưa được các chính sách trên vào thực tiễn và phát huy tác dụng. Mắt xích quan trọng của quá trình cải tổ là việc xử lí hệ thống bưu điện Nhật – bên cạnh chức năng theo tên gọi của nó, đây còn là một ngân hàng khổng lồ với tổng tài sản lên đến hơn 320.000 tỷ yên (tương đương 2800 tỉ USD). Dự luật tư nhân hoá bưu điện Nhật là một cú hích cho nền kinh tế vào lúc bấy giờ.

3. Cuộc tấn công của các nhà đầu cơ ở Hồng Kông

Dựa vào điểm yếu là tỷ lệ lạm phát ở Hồng Kông cao hơn ở Mỹ, tháng 10/2007, giới đầu cơ tấn công vào đồng đô la tại đây, vốn được neo vào đô la Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD, gây sụt giảm nghiêm trọng giá chứng khoán và đe doạ thị trường tài chính. Các động thái của Hồng Kông nhằm cứu giá chứng khoán đã gây sửng sốt cho giới đầu tư và đầu cơ chứng khoán trên toàn thế giới:

  • Chi hơn 1 tỷ USD nhằm bảo vệ đồng đô la Hồng Kông.
  • Nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên 23%, thậm chí vọt lên mức 500%.
  • Mua vào các loại cổ phiếu thành phần của chỉ số HangSeng nhằm làm giảm áp lực cổ phiếu. Đồng thời mua vào 120 tỷ đô la Hồng Kông các loại chứng khoán.

Những nỗ lực này giúp tỷ giá đô la Hồng Kông so với đô la Mỹ vẫn bảo toàn ở mức 7,8:1, cho đến khi giới đầu cơ bỏ cuộc do bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.

4. Cuộc tấn công của các nhà đầu cơ và hiện tượng rút vốn đồng loạt tại Thái Lan

Năm 1997, khi thị trường bất động sản Thái Lan bị vỡ, một số thể chế tài chính phá sản và người dân không còn tin vào khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định của Chính phủ, giới đầu cơ bắt đầu tấn công đồng Baht khiến các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra. Sau khi nhận hai gói cứu trợ trị giá 19, 9 tỷ đô la từ IMF, Thái Lan đã tự vạch ra các chính sách nhằm tái xây dựng lại nền kinh tế và thị trường tài chính:

Về lâu dài:

  • Đẩy mạnh giáo dục và tiếp cận công nghệ: nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Thái Lan trong thời kì toàn cầu hoá
  • Hiện đại hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tăng mức độ tham dự của khu vực tư nhân trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công, nhằm cải thiện kết cấu hạ tầng, đặc biệt là dịch vụ thông tin.
  • Tăng cường sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, thiết lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
  • Hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bộ phận chủ chốt công ăn việc làm cho người lao động nhằm hỗ trợ tăng trưởng cân đối, ổn định và có chất lượng.

Các cải tổ thị trường tài chính:

  • Để cho các ngân hàng kinh doanh thua lỗ phá sản
  • Mở rộng thị trường cho cổ phiếu ngân hàng
  • Củng cố những tổ chức tài chính chủ chốt nhằm xây dựng hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn.
  • Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ và thành lập cơ quan quản lý nợ Chính phủ
  • Tăng cường việc giám sát các ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, siết chặt kỉ luật thị trường

Những “bài thuốc” này không mang tính đối phó nhất thời, đều đòi hỏi thời gian để triển khai thực hiện cũng như phát huy hiệu quả. Tuy nhiên Thái Lan đã chứng minh được các chính sách trên là hoàn toàn hợp lí bằng sự phát triển chậm mà chắc của nền kinh tế cũng như thị trường tài chính trong những năm gần đây

Nguồn : Saga Tổng hợp & Biên dịch
Phương Trương

Saga App

Saga App