Trước hết, hãy nhìn nhận xem đâu là nguyên nhân khiến chúng ta cảm thấy trống trải dù đã đạt được thành công.
Phải đánh đổi giữa sự nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Đó có thể là sự đánh đổi lớn lao như việc bạn phải đi ngược lại với những niềm tin sâu sắc của bản thân để giành được vị thế trong công ty. Mặt khác, nó cũng có thể chỉ đơn giản như việc bạn phải chịu đựng một lịch làm việc dày đặc, khiến bạn không còn thời gian cho các mối quan hệ cá nhân và chăm lo bản thân.
Dưới đây là chia sẻ của Jess, người đã có tấm bằng giáo dục trong khi đang điều hành công ty của riêng mình, đồng thời phải xoay sở để thực hiện trách nhiệm với gia đình:
"Trong suốt khoảng thời gian đó, động lực chính của tôi là niềm tin rằng khi học xong, tôi sẽ có bằng, có kỹ năng và cơ hội thành công sẽ cao hơn. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp, tôi vẫn cảm thấy khá trống trải. Tôi đã bắt bản thân làm quá nhiều việc cùng lúc khi còn ở trường, đến mức tôi cảm thấy mình không làm tròn bổn phận của một người mẹ. Mặc dù bằng cấp ít nhiều đem lại cho tôi niềm hãnh diện, nhưng việc duy trì mối quan hệ gần gũi với con cái và gia đình quan trọng hơn rất nhiều."
Thiếu tin tưởng bản thân.
Bạn sẽ không cảm thấy hài lòng với thành công nếu không tin rằng thành công đó có được là nhờ công sức mình bỏ ra (Có thể bạn cho rằng thành công đó có được là do may mắn hoặc các yếu tố ngoại cảnh khác). Nghiên cứu kinh điển của Douglas T. Hall về "thành công tâm lý" (psychological success) đã chỉ ra rằng, chúng ta gặt hái được những thành công to lớn không chỉ nhờ vào may mắn. Bạn cần phải tin rằng chính nỗ lực của bản thân đã đưa bạn đến với thành công.
Không được người khác ghi nhận.
Những người khác cũng cần phải tin rằng bạn xứng đáng với thành công mà bạn đạt đựoc. Đây là lý do tại sao nhiều nhà quản lý trẻ, phải vật lộn để từ bỏ hình ảnh "ngựa non háu đá" của những ngày đầu đi làm ở công ty đầu tiên để theo đuổi sự phát triển và tiến bộ ở những công ty khác.
Thiếu thời gian nghiền ngẫm.
Khi giành được một khách hàng, được thăng chức, hoặc nhận được chức danh "đối tác", bạn có bao giờ ngẫm lại những gì mình đã học được gì và nghĩ xem làm thế nào để đảm đương tốt trọng trách mới của mình? Hay bạn ngay lập tức bắt tay vào làm công việc mới? Tình trạng lao đầu vào hết thử thách này đến thử thách khác mà không dành thời gian nghiền ngẫm để phát triển là điều rất phổ biến. Nguyên nhân có thể do tốc độ làm việc nhanh chậm thất thường của môi trường công việc hoặc do chính bạn (hoặc cả hai).
Vậy làm thế nào để chúng ta cảm thấy thỏa mãn thực giữa vô vàn căng thẳng trong nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống cá nhân?
Có một cách mà những nhà tâm lý học gọi là "generativity" – có thể hiểu là truyền đạt lại những gì bạn đã học được để giúp thế hệ kế tiếp đạt được mục tiêu và ước mơ của họ. Hãy nhớ, "Bạn chỉ thực sự thành công khi cả đội của bạn thành công."
Trong một cuộc nghiên cứu, đối tượng tham gia là gần 4000 giám đốc điều hành cấp cao (cả nam và nữ) từ nhiều ngành nghề, vị trí, và quốc tịch khác nhau. Khi tổng hợp kết quả thu được, các nhà nghiên cứu nhận thấy ở những người này đều có một điểm chung rất quan trọng: Dù bận rộn đến đâu, họ đều dành thời gian để chia sẻ kinh nghiệm bản thân với các sinh viên MBA - những nguời đã tiến hành cuộc phỏng vấn này với họ.
Khái niệm "generativity" lần đầu tiên được định nghĩa bởi nhà tâm lý học nổi tiếng Erik Erikson. Ông thường trăn trở: Liệu chúng ta có đang chạy theo những công việc và mục tiêu ích kỷ? Hay chúng ta đang tạo nên những đóng góp lâu dài bằng cách chỉ dạy, tư vấn, tham gia vào các cộng đồng, nuôi dạy con cái, hoặc tạo ra những thứ trường tồn mang lại lợi ích lâu dài cho thế hệ mai sau?
Mặc dù là những câu hỏi như thế này thường thấy ở những nguời thuộc độ tuổi trung niên, nhưng ngay cả đứa trẻ mẫu giáo (một số ít) cũng cảm thấy vô cùng vui sướng khi giúp đỡ và chỉ bảo người khác. Ngay từ khi còn nhỏ, những đứa trẻ này đã có ý thức tìm hiểu những vấn đề mà người khác đang gặp phải và thấy mình cần phải ra tay giúp đỡ.
Dan P. McAdams, một nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực này, đã viết trong cuốn sách của ông, " The Redmeptive Self ” rằng người trưởng thành với phẩm chất “generativity” là những người đáng tin cậy (chứ không hề chuyên quyền). Họ cũng là những bậc phụ huynh có trách nhiệm với con cái. Ông cũng cho rằng, họ có thiên hướng tham gia vào bộ máy chính trị, tổ chức tôn giáo, các vấn đề cộng đồng và các sự kiện mang tính đoàn thể; và rằng họ có nhiều bạn bè cũng như những mối quen biết rộng rãi trong xã hội.
Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi những người như vậy thấy những gì họ đạt được có ý nghĩa hơn và có thể tận hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn hơn.