IMF Và Cuộc Khủng Hoảng Châu Á - Những Ý Kiến Trái Chiều (Phần I)

Unknown
13/05/2015 - 23:05 16124     0

Trong suốt 50 năm qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã giúp nhiều quốc gia vượt qua những khó khăn kinh tế và đã tạo được những thành tích đáng kể. Tuy nhiên trong cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á, IMF một mặt được các Chính phủ nhờ cậy ra tay giải cứu, mặt khác cũng đã bị phê phán khá nhiều. Vì sao?

Là một tổ chức uy tín, IMF lẽ ra đã có thể trấn an và tái tạo được niềm tin. Nhưng ngược lại, hễ mỗi khi những biện pháp của IMF được công bố tại nước nào, dường như tình hình kinh tế nước ấy lại trở nên bất ổn và đồng tiền lại tụt xuống mạnh hơn.

Tại Thái Lan, đồng baht đang ở mức 30 baht/USD, tụt xuống 32baht/USD ngày 28/7/1997 khi Chính phủ thông báo sẽ nhờ IMF trợ giúp. Sau khi công bố các biện pháp của IMF, đồng baht tụt giá xuống 35baht/USD vào ngày 11/9/1997.

Đồng won của Hàn Quốc đang ở mức 973 won/USD, tụt xuống 1.051won/USD ngày 21/11/1997 khi Chính phủ quyết định nhờ IMF can thiệp. Khi các biện pháp IMF được công bố vào ngày 3/12/1997, đồng won tụt xuống 1.163won/USD và đến đầu tháng 1/1998 xuống đến 1.770won/USD.

Tại Indonesia thì tình hình bi đát hơn cả. Đồng rupiah từ 3.290 rupiah/USD tụt xuống 3.525 rupiah/USD ngày 8/10 khi Indonesia quyết định nhờ IMF trợ giúp. Đến ngày 15/1/1998 khi IMF chính thức nhập cuộc thì giá trị tụt xuống 8.650 rupiah/USD , rồi rơi một mạch xuống 13.250 rupiah/USD  một tuần sau đó.

Nói chung, các nhà phê bình cho rằng IMF đã phạm hai lỗi lớn: trước hết là đã không đoán trước được cuộc khủng hoảng, và sau đó là đã không biết rõ căn bệnh nên dùng sai thuốc khiến cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn.

IMF không đoán trước được cuộc khủng hoảng?

Tại phiên họp thường niên của IMF và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Hồng Kông vào tháng 9/1997, ông Michel Camdessus, Giám đốc điều hành IMF tuyên bố rằng chính họ đã lên tiếng cảnh báo về cuộc khủng hoảng trong bản tường trình năm trước. Tuy nhiên trong một bài viết đăng trên Financial Times vào tháng 12/1997, giáo sư Jeffrey Sachs thuộc đại học Harvard, người đã từng cố vấn giúp các nước Đông Âu, đã chỉ trích rằng trong bản tường trình ấy "tuyệt nhiên không có chút dấu hiệu báo động nào cả, ngoại trừ những lời khuyên cần cải tổ thêm".

Ngay cả đối với Hàn Quốc, IMF cũng đã không hề nhắc nhở đến vấn đề các đại công ty (chaebol) hay đặt vấn đề nước ngoài nắm chủ quyền ngân hàng hoặc sửa đổi quản lý ngân hàng. Tất cả mới chỉ xuất hiện trong những chương trình do IMF đề ra gần đây". Đối với Malaysia, ngay hồi tháng 6/1997, IMF còn lên tiếng ca ngợi mô hình kinh tế nước này và khen ngợi Chính phủ Malaysia là đã giữ vững được cơ cấu tài chính trong một hoàn cảnh đầy thách đố khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Chỉ 4 tháng sau đó, IMF lại thay đổi và nặng lời phê phán Malaysia.

Một trong những điều đầu tiên IMF đã mang ra thi hành tại Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia là lập tức bắt đóng cửa một số ngân hàng. Tại Hàn Quốc, IMF bắt đóng 14 trong số 30 ngân hàng đầu tư. Tại Indonesia, 16 ngân hàng lỗ lã bị buộc phải đóng cửa. Tại Thái Lan, 58 trong số 91 công ty tài chính phải ngưng hoạt động. Bàn về việc này, giáo sư Augustine Tan thuộc Đại học Quốc gia Singapore, một nhà kinh tế rất am hiểu tình hình trong vùng đã phê bình rằng: "Tại sao lại cho rằng tất cả ngân hàng và tổ chức tài chính là dở, là thối nát, mà phải dẹp đi hết để làm lại từ đầu?". Ông cho rằng IMF đã phạm một lỗi lầm khi đem “những phương thuốc” áp dụng ở Nam Mỹ ra dùng lại ở châu Á mặc dù “căn bệnh” ở đây khác hẳn.

Thật vậy, việc ra lệnh đóng cửa ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng chỉ làm mọi người thêm sợ hãi, vội vã rút tiền ra khỏi ngân hàng không kể tốt xấu, và làm mất lòng tin của tất cả. Trong khi vấn đề chính là việc nhiều công ty thiếu tiền trả nợ ngắn hạn thì IMF không những không đứng ra giúp điều đình hoãn nợ, mà lại cho tăng lãi suất khiến tình hình càng trở nên khó khăn hơn.

Riêng đối với Indonesia, những biện pháp áp dụng có tính cách dài hạn và nhắm tới việc cải tổ toàn diện để đưa nền kinh tế Indonesia vào khung hình tự do kinh doanh toàn cầu. Bàn về những biện pháp này, nhà kinh tế Steve Radelet thuộc đại học Harvard phê bình: "Thật hoàn toàn phi lý khi bắt những nước này phải thắt lưng buộc bụng khi họ hiện có thừa khả năng sản xuất và mức tiết kiệm đã lên tới 30% tổng số thu nhập". Ông Sachs thì nặng lời hơn: "Không có lý do gì để cho rằng nền tài chính châu Á đáng báo động cả... Châu Âu cần cải tổ khu tài chính là đúng nhưng không thể vin vào lý do đó để tháo chạy hoảng hốt, và cũng không thể vì thế mà đưa ra những biện pháp thay đổi chính sách quá khắt khe như vậy. Châu Á có đủ sức để đương đầu với một sự co thắt kinh tế: ngân sách của họ ở mức cân bằng hay thặng dư, mức lạm phát thấp, vốn tiết kiệm khá nhiều và họ thừa sức đẩy mạnh xuất khẩu".

Từ Washington, chủ báo nổi tiếng và là cựu ứng cử viên Tổng thống Mỹ, Steve Forbes cũng đã phê bình rằng: "Phương thức thắt lưng buộc bụng và tăng thế chỉ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á càng trầm trọng thêm". Giới phê bình quốc tế còn cho rằng. IMF đã không hề bạn bạc kỹ lưỡng cùng các chuyên gia giàu kinh nghiệm mà đột ngột áp đặt những phương thuốc đắng để thắt chặt nền kinh tế trong một bối cảnh nóng hổi khiến cuộc khủng hoảng càng trầm trọng hơn. Phải chăng điều này đã xảy ra do những chuyên viên IMF thiếu kinh nghiệm?

Mời bạn đọc theo dõi phần tiếp theo của bài viết: IMF Và Cuộc Khủng Hoảng Châu Á - Những Ý Kiến Trái Chiều (Phần II)

Nguồn : Saga Tổng hợp & Biên dịch
Unknown