Trong cuốn sách gần đây của Charles Duhigg về hiệu suất làm việc, Smarter, Faster, Better (Thông minh hơn, Nhanh hơn, Giỏi hơn), ông ghi nhận sự suy thoái của kinh nghiệm chung của người Mỹ về thời gian với quan sát đắt giá này: "Năm 1980, hơn 90% lực lượng lao động Mỹ làm việc cho 1 ông chủ cố định. Ngày nay, hơn một phần ba số người Mỹ là freelancers, nhà thầu, hoặc làm việc ở những vị trí tạm thời khác.”.
Ý tưởng này đặt ra một tiền đề trung tâm của cuốn sách: rằng gánh nặng của hiệu quả hiện nay giảm nhanh hơn nó đã từng trong quá khứ, trên phương diện cá nhân. Biết "làm thế nào để đặt ra các mục tiêu, ưu tiên công việc, và lựa chọn những dự án để theo đuổi" là, Duhigg lập luận, sự khác biệt giữa năng suất và sự sống còn. Hoặc, theo lời của Peter Drucker, chuyên gia hàng đầu thế giới về tư vấn quản trị, "Làm đúng việc là điều khiến cho kiến thức được áp dụng hiệu quả”.
Các nhân viên cảm thấy trách nhiệm với việc tự quản lý bản thân (self-manage) tạo ra một loại lo lắng mới, trong đó những cuốn sách như hành động của Duhigg làm người kiểm duyệt. Với Smarter, Faster, Better, Duhigg đã viết một bản hướng dẫn cho một nhân viên ưu tú - một lớp nhân viên đã có tiếng nói có trọng lượng trong việc sử dụng thời gian của họ. Đối với những độc giả này, các mẹo về năng suất là những lời giáo huấn xa xỉ làm tăng thêm trình độ văn hóa của họ khi họ thật sự không cần nó đến vậy
Theo truyền thống, các chuyên gia quản lý thời gian đã đưa ra các công thức và sơ đồ quyết định cụ thể mà họ cho là vượt qua được to-do list thông thường, từ "Drift, Drown, or Decide" của Alan Lakein tới "Do it, Delegate it" của David Allen hoặc Defer it”. Duhigg tránh những phương pháp diễn đạt hình thành khẩu hiệu như trên (hình thành thói quen là chủ đề của cuốn sách trước của ông: Sức mạnh của thói quen) và thay vào đó tập trung vào các chiến lược có thể áp dụng cho các ngành hay nhiều viễn cảnh khác nhau. Các chương về động lực làm việc, làm việc nhóm, tập trung và đặt ra các mục tiêu trước về quản lý, ra quyết định, đổi mới và tiếp thu dữ liệu. Những chủ đề cốt lõi này được Duhigg tổ chức bằng cách tận dụng điểm mạnh của mình đó là sử dụng những nhân vật và câu chuyện cụ thể là minh họa. Trong thị trường hỗn tạp về công cụ hỗ trợ nâng cao năng suất, cách tiếp cận sâu rộng này thật sự mới lạ. Nó thừa nhận rằng đã có rất nhiều công cụ lịch, các huấn luyện viên, và các ứng dụng sẵn có tập trung vào kỷ luật bản thân (self-discipline).
Duhigg quan tâm hơn đến những thách thức tâm lý cá nhân tinh vi, tinh tế hơn về làm việc tốt hơn, và nếu những lo lắng này nghe quen thuộc với các chuyên gia quản lý khác thì những ví dụ của ông cho thấy những vấn đề này ngày càng trở nên khác biệt như thế nào. Ví dụ, trong thời đại tự động hóa, tập trung tinh thần trở thành vấn đề nan giải khi con người phải đối mặt liên tục với tương tác công nghệ. Đây là trở ngại chính mà nhiều nhân viên phải đối mặt khi các máy móc kết nối liên tục đưa ra vô số yêu cầu hành động. "Những tiến bộ trong truyền thông và công nghệ vốn dĩ để làm cho cuộc sống của chúng ta dễ dàng hơn", Duhigg viết. "Thay vào đó, chúng thường lấp đầy thời gian của chúng ta với nhiều công việc và căng thẳng hơn”.
Văn học self-help là một cách để tưởng tượng ra thành công cá nhân trong hành vi đọc.
Khi nói đến dòng sách self-help, những bài học được truyền đạt tốt nhất là những phát hiện từ nghiên cứu mà hầu hết mọi người không có thời gian để đọc. Tồi tệ nhất, chúng là những sự thực được tái chế với sự thừa nhận không mấy rõ ràng từ nhiều ví dụ trước mà các tác phẩm thuộc chính thể loại sách này đưa ra. Tuy nhiên, Duhigg vượt qua cả hai số phận trên bằng cách nhận ra rằng xu hướng quản lý là một phần của vấn đề. Ví dụ, ông ghi nhận, khi có mô hình "SMART" cuả GE - "Specific (Cụ thể), Measurable (Đo lường được), Actionable (Hành động được), Realistic (Thực tế), Time-specific (Thời gian cụ thể)- nhân viên đã dành hàng giờ để đưa công việc của họ phù hợp với các tiêu chí này” và có ít thời gian để chắc chắn rằng đó là một mục tiêu đáng để đạt được ngay từ đầu. Tương tự như vậy, các tổ chức khuyến khích" stretch goal "- những mục tiêu khôn ngoan vượt ra ngoài những gì thực tế thực tế - vượt qua được ranh giới giữa sự đổi mới cảm hứng và sự tự tin mong manh của người nhân viên. Những ví dụ này cho thấy các lý thuyết năng suất thường khó thực hiện. Áp dụng cho tất cả, qua các công ty lớn có nhiều bộ phận chức năng phức tạp, các công thức đơn giản có thể tạo ra những kết quả sai lầm.
Trong thế giới nâng cao năng suất tự thân, thành công phụ thuộc vào việc liệu một phác đồ có thể được thực hiện và tuân thủ liên tục hay không. Người ta không thể là giám đốc nhà hát, chủ sở hữu nhà máy, phi công, hoặc nhà thiết kế điện thoại, nhưng ý nghĩa của việc đó là áp dụng một số chiến lược giống như những người này sẽ giúp một người khác thành công. Đối với hầu hết, số phận của hành khách hoặc ngân sách hàng triệu đô la không bị đe dọa trong công việc hàng ngày của họ. Thử nghiệm thực tế các nguyên tắc tự giúp mình (self-help) là liệu những hiểu biết sâu sắc của nhà lãnh đạo có thể chịu được sự lộn xộn bình thường của cuộc sống hàng ngày hay không.
Một trong những khía cạnh sâu sắc nhất của cuốn sách của Duhigg là phụ lục, minh họa cho những nỗ lực của ông để áp dụng các kỹ thuật của cuốn sách trong việc viết nó. Hình ảnh như một món quà hiện hữu góp phần níu giữ sự tập trung của người đọc. Một ghi chú bằng tay ("Tại sao đọc bài báo này?") trên đầu trang của một bài báo hàn lâm về động lực thời thơ ấu bao gồm các câu trả lời đậm nét lạc quan: "Nó sẽ giúp tôi hoàn thành cuốn sách này"; "Nó sẽ giúp tôi giải quyết vấn đề năng suất làm việc". Đối với một số độc giả, sự thân mật này có thể quá mỉa mai khiến họ luôn đặt câu hỏi: Tại sao Duhigg lại cần có năng suất cao hơn, vì ông đã là một nhà báo và nhà văn thành công.
Văn học self-help là một cách để tưởng tượng đến thành công cá nhân qua hành động đọc: "Việc đọc một quyển sách về thành công chính là biểu tượng đạt được thành công đó. Đó là khi họ đọc được rằng chính độc giả đang "thành công", nhà lý thuyết văn học Kenneth Burke đã viết năm 1938, khi ngành công nghiệp self-help mới xuất hiện. Ngay cả khi đó, ông đã sẵn sàng tuyên bố rằng "độc giả không nghiêm túc áp dụng các lời khuyên trong sách" trong phần lớn các trường hợp. Ông tiếp tục:
Nét quyến rũ của cuốn sách nằm trong thực tế là: người đọc, trong khi đọc nó, sống trong hào quang thành công. Những gì người ta muốn là thành công dễ dàng; và nhận được nó trong hình thức biểu tượng bằng cách đọc về sự thành công. Để cố gắng áp dụng những thứ như vậy trong cuộc sống thực sẽ rất khó khăn, vì cuộc sống tràn ngập những điều khiến người ta vỡ mộng.
Burke đặt văn học self-help trong tương quan với một lịch sử lâu dài về truyền thông miệng và viết đưa ra "chiến lược" để giải quyết các tình huống "điển hình và thường xuyên". Giống như các tục ngữ cổ, Burke viết, những bài học được các chuyên gia ngày nay khuyên nhủ độc giả "Nên mong đợi điều gì, nên tìm kiếm điều gì" trong một ngày bình thường. Chú ý đến những dấu hiệu này có thể có được đúng thái độ để thúc đẩy hành động và đảm bảo rằng các nhiệm vụ quan trọng nhất được thực hiện.
Vì vậy, việc có thể bỏ qua cuốn sách của Duhigg như một loại tri thức thông thường là hạ thấp tác phẩm của các thể loại phổ biến đưa ra những cách giải quyết thỏa mãn những mâu thuẫn trong đời sống kinh doanh. Các văn bản lạc quan do các nhà văn tài năng như Duhigg đưa ra là một sự cứu rỗi tạm thời cho những căng thẳng ở trung tâm của chủ nghĩa tư bản. Những cuốn sách này và sự nổi tiếng của chúng phản ánh thực tế rằng việc thực hiện tối đa hóa năng suất là điều cần thiết trong một nền văn hoá trong đó tự quản lý là một yêu cầu của điều kiện tự do.
Tuy nhiên, điều cần thiết là ngụ ý của tác giả nào mới là cái đáng chú ý. Nhu cầu về các thần chú năng suất cá nhân hóa cắt giảm chi phí của công ty để "làm nhiều hơn với ít hơn (do more with less)" và "làm việc thông minh hơn, không phải là chăm chỉ hơn (work smarter, not harder)" nhưng hàng thập kỉ đình công lương đã cho thấy những lợi ích quá nhỏ nhặt mà nhân viên làm việc hiệu quả hơn. Cuốn sách của Duhigg sẽ hữu ích hơn nếu nó cung cấp một lý do cho các bài học của nó - cụ thể là, nhân viên cần làm việc năng suất đến mức nào? Vì lợi ích của họ hay cho người quản lý của họ? Ai mới là những người chủ thật sự trong một thế giới phi tập trung và lao động bằng máy móc? Liệu năng suất thậm chí còn là thước đo đúng cho môi trường làm việc, trong đó các công việc có thể dự báo bị suy giảm?
Tựa đề của cuốn sách của Duhigg cho thấy một chuỗi nhức nhối đồng đều, một niềm tin rằng thông minh hơn và nhanh hơn hẳn là tốt hơn. Theo cách nói của Duhigg, năng suất là "cái tên mà chúng ta cố gắng tìm ra cách sử dụng tốt nhất năng lượng, trí tuệ và thời gian của chúng ta khi chúng ta cố gắng nắm bắt những phần thưởng có ý nghĩa nhất với ít nỗ lực bị lãng phí nhất”. Thông minh hơn, nhanh hơn, về việc làm mọi việc mà không phải hy sinh mọi thứ mà chúng ta quan tâm trên đường đi. "
Vấn đề duy nhất với mục tiêu này là "tất cả mọi thứ mà chúng ta quan tâm" bao gồm phần lớn những điều chúng ta coi là hiển nhiên, mặc dù ngày nay nơi làm việc và xã hội đầy những người không quan tâm đến những điều tương tự. Đây chính là bối cảnh trong đó năng suất đã trở thành một từ thông dụng để chứng tỏ bản thân - đó là một khát vọng thích hợp cho những người sống trong một thế giới trong đó hoạt động có ý nghĩa hơn. Năng suất cung cấp một hệ thống niềm tin giúp công nhân/nhân viên vượt qua qua những ngày làm việc của họ, bất chấp bản chất trống rỗng về tinh thần của nó.